QUÊ TÔI - P2

 Chiếc thuyền lướt đi trong đêm vắng, êm ru như ru ngủ, mãi phải gần ba cây số thì nhẹ nhàng cập bến một bãi bồi giữa sông. Bãi này rộng ơi là rộng, y chang cái "soi" giữa sông Hồng quê tôi vậy. Trên bãi, bạt ngàn chỉ thấy toàn cây vải, không có lấy một loại cây nào khác. Cạnh đó, một chiếc ca nô nhỏ sơn đen đậu sẵn.

Anh Thành quay lại dặn tôi: "Mày cứ bám theo anh, đừng có lang thang, không khéo ăn đủ đấy!" rồi nhảy phóc xuống trước. Đám đi sau vác theo một lô xích xông bao tải trông khá cồng kềnh. Trên bờ, bốn năm ông nữa cũng đang ngồi chờ sẵn. Anh Thành lên tiếng: "Xong hết cả chưa?" "Ok rồi anh!" – một người trả lời, đoạn xách một cái bao tải có vẻ nặng trịch (và hình như có cả một chú chó hơi to nằm im thin thít bên trong) quăng lên thuyền.

Cả bọn lầm lũi, im thin thít như đi ăn trộm, men theo lối hàng rào thép gai đã được gỡ sẵn để vào vườn vải. Anh Thành ghé tai tôi thì thầm: "Không phải xoắn, cứ theo anh." Nói xong, anh rút con dao bấm ra, cầm chắc trong tay. Chao ôi, hóa ra đây là chuyên án "nhảy vải" nổi tiếng đây mà! Đúng là có khác, "dân chuyên" có khác!

Được biết, quy trình rất bài bản: trước tiên là "tiền trạm" để xác định vườn nào vải chín nhiều, chủ nhà chỉ có một mình hoặc vắng nhà. Sau đó là khâu chuẩn bị: cắt điện, cột chặt cửa nhà chủ vườn bằng dây thép gai, rồi cắt cử hẳn hai "vệ sĩ" cầm kiếm đứng canh hai bên cửa. Nghe mà tôi rùng mình.

Cả bọn tản ra xung quanh, giữ khoảng cách với nhà canh vườn. Mỗi người vác vài cái bao tải. Anh Thành lại ghé tai tôi: "Mày ngồi đây, nhớ chỗ hàng rào chui vào chưa? Có biến là cứ chuồn ra thuyền trước, tuyệt đối không được hút thuốc đấy, không là xong phim đấy!". Tôi ngồi bệt xuống gốc cây, tim đập thình thịch như đánh trống. Từ bé đến lớn, đây là lần đầu tôi tham gia "phi vụ" tầm cỡ thế này, sợ xanh mặt!

Phải gần một tiếng đồng hồ sau, cả đội mới rút lui, sau khi đã cẩn thận xóa sạch dấu vết: tháo dây buộc cửa, nối lại dây điện và mắc lại hàng rào thép gai đâu vào đấy. Mỗi người vác hai ba bao vải đầy ắp quẳng lên thuyền, mỗi bao ước chừng cũng phải mười đến mười lăm cân. Chiếc thuyền nhẹ nhàng chèo đi quãng trăm mét rồi mới nổ máy, phóng như bay. Chiếc ca nô đen phía sau cũng rồ máy bám theo sát nút.

Cập bến, cả bọn xách "chiến lợi phẩm" vào quán bia cỏ của anh chủ đầu dơi tai chuột, mặt mũi đười ươi mà anh Thành nhắc đến lúc tối. Anh chủ, ngoài ba mươi tuổi, đã hé cửa chờ sẵn, dẫn cả bọn vác hàng vào một căn nhà nhỏ dùng để chứa dụng cụ nông nghiệp. Cái bao tải có chú chó "nằm im thin thít" cũng được ném lại cho chủ quán. Xong xuôi, cả bọn nhanh chóng tản ra, biến mất vào màn đêm.

Hai anh em chúng tôi trở về nhà, mang theo mấy lon bia. Lúi húi pha bát mì tôm thêm quả trứng, ngồi vừa ăn vừa buôn chuyện. Anh Thành giải thích cặn kẽ về "nghề" này. Đại loại là có hai loại vải chua và vải ngọt. Đầu mùa, vải chua chín trước, giá "chát" khỏi bàn vì hàng hiếm mà nhu cầu thì lớn. Cả đội chỉ "đánh quả" được chừng một tuần đến mười ngày là hết mùa. Nhưng tuyệt đối không "phang" ở xã mình, phải sang xã khác, càng xa càng tốt.

Trước khi hành động, phải "tiền trạm" cực kỳ kỹ lưỡng: tìm hiểu xem vườn nào nhiều vải chín, mấy người canh, giờ giấc ra sao, vườn cạnh đó có ai không, thậm chí còn phải điều tra xem gia đình họ có con cháu chơi bời với anh em mình không, rồi mới lên kế hoạch tác chiến. Tôi buột miệng: "Đúng là như phim Mỹ ấy nhỉ!" Anh Thành cười khà khà: "Xưa ngu lắm, ăn trộm chả được mấy mà dễ bị tóm. May mà sau này chú Chính 'thổ' đi tù về, truyền thụ cho cả một khóa lý thuyết và thực hành, nên giờ mới 'bon tít' được thế này!"

Tôi hỏi tiếp: "Thế mai lại phải đi rao bán à?" Anh Thành đáp: "Đâu mà phải rao. Sáng sớm đã có xe chạy qua chỗ thằng Tài chủ quán lấy rồi, tiền tươi thóc thật theo giá thị trường luôn." "Được nhiều không anh?" – tôi tò mò. "Nhiều chứ! Một mớ to đấy, đủ phè phỡn chơi bời thoải mái."

"Thế tiền chia đều cho tất cả à? Hay là anh Tùng với chú Chính chia?" – tôi thắc mắc. Anh Thành giải thích rằng còn nhiều "ban bệ" ăn theo lắm, từ "trung ương đến địa phương" (anh nói thế chứ tôi cũng chả hiểu "trung ương" ở đây là ai). Quả thật, sự chặt chẽ của cái "tổ chức" này làm tôi kinh ngạc. Ai bảo nông dân "não ngắn" tôi chửi cho sml! Xong, anh Thành bảo: "Thôi khuya rồi, ngủ đi, mai lấy sức còn 'bú rượu cắn thịt chó' nữa chứ!"

Gần trưa hôm sau, anh Thành dắt tôi đến một ngôi nhà nằm biệt lập trên một cái đầm lớn cạnh sông, rộng chừng chục héc-ta. Đó là nơi thằng bạn anh Thành đấu thầu nuôi cá và ba ba. Vắng vẻ, tách biệt khỏi làng mạc nên đây là điểm tụ tập lý tưởng của anh em, để bù khú nhậu nhẹt, thậm chí còn "gọi đào" về đây chơi mà chẳng ai hay biết.

Chú chó bị "đánh bả" đêm qua không biết được mang đến từ lúc nào, giờ đã nằm gọn ghẽ trên mâm, đầy đủ các món. Tôi hơi e ngại: "Anh ơi, chó đánh bả sao ăn được ạ?" Anh Thành cười ha hả: "Bả có nhiều loại, có loại không ăn được, nhưng loại này đặc biệt, ăn thoải mái đi." Tôi vẫn hơi ghê ghê răng: "Bả đó là gì vậy ạ? Mà thôi, em không ăn đâu." Anh Thành khoát tay: "Ơ cái thằng này, mày là em tao mà tao lừa mày à? Bọn tao thèm thịt chó là đi 'săn' suốt, còn bán cho người ta nữa, có vấn đề gì đâu. Thôi vào uống rượu đi, bả gì lát nữa tao nói. Đúng là ông công tử bột, chả biết cái gì sất!"

Tôi theo anh ngồi vào mâm. Ngoài thịt chó, còn có mấy con cá trắm to hấp từ dưới đầm lên, ăn ngon tuyệt cú mèo. Một cái can 20 lít rượu được đặt giữa mâm, đầy đủ các "chiến hữu" đêm qua và thêm vài người nữa. Anh Thành giới thiệu tôi với mọi người. Không khí vui vẻ, dân quê vốn dễ gần, hiếu khách, thêm chút rượu vào là chuyện trò rôm rả như pháo rang. Thằng ngồi cạnh tôi tên Đức, trạc tuổi tôi, tóc dài nhìn khá lãng tử. Sau chục chén rượu, nó khề khà gạ tôi: "Mai có tiền, anh em mình đi 'ăn hàng' phát nhỉ, Són!" "Ăn hàng là cái gì thế?" – tôi hỏi. "Tối mai tao qua đón mày, hay lắm, đi nhá!" – nó cười tủm tỉm.



Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn