QUÊ TÔI - P1

Cái mùa hè xa lắc xa lơ nào đấy, khi tôi vẫn còn đang mài đũng quần trên ghế nhà trường, bỗng thấy chúng bạn xôn xao rủ nhau đăng ký tham gia phong trào Mùa Hè Xanh-sạch-đẹp gì đó. Nghe bảo sẽ được lên vùng sâu vùng xa cống hiến sức trẻ, tôi cũng thấy nao nao trong dạ.

Ngồi trà đá vỉa hè, hóng các đàn anh khóa trên chém gió về "chiến tích" sau mỗi chuyến đi, tôi lại càng quyết tâm. Nào là giao lưu văn nghệ với các thiếu nữ thôn bản, nào là cải thiện bữa ăn bằng "nông sản tự túc"... Tựu trung lại, công thức có vẻ là: cống hiến một, trải nghiệm và hưởng thụ thì mười. Nghe thôi đã thấy lọt tai ghê gớm!

Về nhà, tôi trịnh trọng trình bày với "lão nhân gia": "Bố ơi! Con quyết định dấn thân! Thanh niên thời đại mới phải năng nổ, phải đi sâu đi sát vào đời sống bà con nông dân, tìm hiểu thực tiễn, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của quần chúng..." - Tôi tuôn một tràng những câu chữ nghe như trong nghị quyết.

Bố tôi, đang khoan thai nhấp ngụm bia hơi, nghe xong liền đặt cốc xuống bàn một cái "cộp". Ngài lườm tôi từ đầu đến chân rồi phán một câu xanh rờn: "Thôi thôi, xin cậu! Ở nhà thì lười chảy thây, cái bát ăn xong còn chưa dọn nổi mà đòi đi kiến thiết đất nước à? Muốn thực tế chứ gì? Về quê! Vừa có thực tế, vừa đỡ tốn kém. Quyết thế đi, không nói nhiều!"

Thế là, hành trình "về nguồn" của tôi chính thức bắt đầu.

Xin thưa luôn cho vuông, quê tôi không hề nghèo nhé. Nằm trong vùng "thủ phủ" của một loại cây ăn quả nức tiếng cả nước, nhà nào cũng có vài sào vườn là đủ sống ung dung quanh năm. Ruộng lúa có khi còn cho thuê, chỉ cấy chút ít lấy gạo nấu rượu với nuôi dăm con gà con vịt cho vui cửa vui nhà thôi.

Ông bà tôi đều đi xa cả rồi. Các cô các bác cũng thoát ly lên thành phố, chỉ còn lại vài người bám trụ mảnh đất ông cha. Vừa về đến nơi, mấy ông anh họ đã hồ hởi làm ngay một bữa tiết canh vịt chào đón "thằng em tri thức" về thâm nhập thực tế. Rượu vào lời ra, anh Thành, con bác cả, hơn tôi vài tuổi, vỗ vai tôi đôm đốp: "Thôi, tối mày với tao qua nhà ông bà ngoại ngủ cho thoải mái, đi sớm về khuya không phiền đến ai."

Thế là tôi xách ba lô theo anh sang "dinh thự" bỏ không. Đêm đầu tiên, ngà ngà say, tôi gác chân lên cửa sổ ngủ, gió đồng mát rượi. Chao ôi, bình yên làm sao!

Trời mới tờ mờ sáng, anh Thành đã lay tôi dậy. Mắt nhắm mắt mở, tôi định cuộn tròn trong chăn thì anh giục: "Dậy mau! Lòng lợn tiết canh đang chờ kìa, anh em còn phải đi làm ăn nữa chứ!" Ồ, nông dân thời nay chăm chỉ thật, tôi nghĩ bụng và bật dậy cái roẹt.

Anh dắt tôi ra một quán ăn nằm ngay trên trục đường liên tỉnh. Vừa tới nơi đã thấy 3-4 chiến hữu của anh ngồi sẵn, trước mặt là mấy đĩa lòng bốc khói nghi ngút và dăm ba chai "nước mắt quê hương". Nhìn cảnh tượng này, tôi không khỏi choáng váng. Mới sáng sớm mà các anh đã nạp năng lượng hùng hậu thế này, bảo sao chiều vẫn đi làm được, quả là đáng nể!

Tôi ngồi chưa ấm chỗ thì anh Tùng (con cả nhà bác tôi, tầm bốn chục xuân xanh) bước vào cùng một người đàn ông trạc tuổi, đầu trọc, mắt một mí trông rất "hình sự". Cả bàn nhốn nháo đứng dậy chào. Hai vị "lão đại" gật gù rồi ngồi riêng một bàn. Anh Tùng vẫy tôi lại: "Đây là chú Chính 'thổ', cũng là vai chú họ mình đấy. Sang đây ngồi với anh và chú, kệ bọn kia. Uống nhanh còn có việc."

Tôi ngoan ngoãn vác ghế sang. Chú Chính vỗ vai tôi thân tình: "Về đây chơi cứ thoải mái nhé, không phải ngán thằng nào hết, nghe chưa!" Tôi dạ vâng lia lịa, nhưng trong đầu thì thắc mắc: "Ơ, nhưng mà... ngán là ngán cái gì mới được cơ chứ?"

Ngồi hóng chuyện một lúc, tôi mới vỡ lẽ. Anh tôi và chú Chính hóa ra là những "nhân vật có số má" trong vùng. "Công việc" của các anh là vận hành một trạm "BOT dân dã" trên tuyến đường này. Xe khách, xe tải đi qua đều phải đóng "phí lưu thông". Đội ngũ làm việc rất chuyên nghiệp, xe nào chạy tuyến cố định thì thu theo tháng, xe vãng lai thì tính theo lượt. Ai không tuân thủ thì nhẹ nhàng là xịt lốp, nặng hơn thì hàng hóa không cánh mà bay.

Đặc biệt vào mùa thu hoạch vải thiều, "doanh nghiệp" của hai anh làm ăn phát đạt cực kỳ. Xe tải xếp hàng dài dằng dặc. Ngoài tiền "vé qua trạm", chủ hàng còn phải nộp thêm "phí an ninh" mới mong làm ăn yên ổn. Chưa kể các dịch vụ đi kèm như cung cấp nhân công thu hái, bốc vác, đóng gói... Mọi thứ đều có sổ sách ghi chép, quy trình rõ ràng, còn có cả "quan hệ đối ngoại" chặt chẽ với chính quyền địa phương nữa chứ chẳng đùa.

Quanh quẩn mấy ngày chỉ ăn với nhậu, tôi bắt đầu thấy chán. Tôi ngỏ ý muốn được đi "thực tế" công việc làm ăn của bà con nông dân. Anh Thành cười bí hiểm: "Ok em, tối nay đi. Giờ cứ làm vài vại bia đã."

Đến tối, chẳng thấy động tĩnh gì, tôi hỏi thì anh lại rủ ra quán bia ngồi chờ. Tò mò quá mà không dám hỏi nhiều. Hai anh em ngồi lai rai với đám bạn của anh đến gần nửa đêm thì có người vào gọi. Anh Thành xách thêm can rượu, ít lạc rang rồi dắt tôi đi.

Chúng tôi đi bộ ra bờ sông, xuống một con thuyền nhỏ không mui, có gắn máy ở đuôi. "Đi đâu đấy anh?" - Tôi tò mò. Anh cười cười: "Đi làm chứ đi đâu." Lòng tôi dấy lên một cảm giác hồi hộp khó tả.

Thuyền từ từ rời bến, nhưng lạ thay, anh không nổ máy mà lại dùng sào chèo tay. Tôi thắc mắc thì anh chỉ bảo: "Cứ đi rồi biết, hỏi nhiều làm gì."

Đêm ấy trăng sáng vằng vặc. Ngồi trên mạn thuyền, nhâm nhi chén rượu giữa không gian tĩnh lặng, chỉ có tiếng mái chèo khua nước và ánh trăng lấp lánh trên sông, gió thổi mơn man... Khung cảnh hữu tình, lãng mạn như trong phim. Cả đoàn không ai nói với ai câu nào, khiến cho sự phiêu lưu bí ẩn càng thêm phần hấp dẫn.



1 Nhận xét

Mới hơn Cũ hơn